NộI Dung
Một hệ sinh thái là một cộng đồng các sinh vật, chất dinh dưỡng và các sinh vật phi sinh học, phi sinh học. Mặc dù mỗi hệ sinh thái là duy nhất, mọi hệ sinh thái đều thuộc một loại quần xã. Một quần xã là một hệ sinh thái lớn chứa nhiều hệ sinh thái nhỏ hơn cùng loại. Tám loại quần xã tồn tại, được xác định chủ yếu bởi nhiệt độ hoặc lượng mưa.
Rừng mưa nhiệt đới
Gắn liền với những khu rừng rậm rạp, rừng mưa nhiệt đới là hệ sinh thái đa dạng nhất trên hành tinh. Thảm thực vật dày, chủ yếu là thường xanh, ngăn chặn ánh sáng mặt trời và nhiệt độ cao đẩy nhanh quá trình phân hủy, ức chế sự hình thành mùn giàu dinh dưỡng. Kết quả là, nhiều loài sống trong các tán cây và tán cây, hoặc cao nhất, của rừng mưa nhiệt đới. Các khu rừng ở Nam và Trung Mỹ là ví dụ về rừng mưa nhiệt đới.
Rừng rụng lá ôn đới
Cây rụng lá, hoặc cây rụng lá trong mùa thu và mùa đông, chiếm ưu thế trong các khu rừng rụng lá nhiệt độ. Những cây gỗ cứng như sồi, phong, hạt dẻ, hickory và óc chó là những cây phổ biến trong các khu rừng Bắc Mỹ; hươu, gấu, chó sói và sóc là những động vật phổ biến. Rừng rụng lá ôn đới mát hơn rừng mưa nhiệt đới, nhưng ấm hơn rừng nhiệt đới. Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ là một ví dụ về một khu rừng rụng lá ôn đới.
Taiga
Lạnh hơn rừng rụng lá ôn đới, thường dưới mức đóng băng trong sáu tháng trong năm, taigas trải qua một mùa hè khá ấm áp, dẫn đến sự phong phú của đời sống thực vật. Cây lá kim, cây thường xanh sản xuất nón, chiếm ưu thế, bao gồm linh sam, vân sam, thông và hemlock. Địa y và rêu là phổ biến, và hồ và vùng đất ngập nước rất phong phú trong taigas. British Columbia, Canada và một phần của Alaska là hệ sinh thái taiga.
Lãnh nguyên
Nhiệt độ rất thấp trong hệ sinh thái vùng lãnh nguyên của vùng lãnh nguyên đến nỗi mặt đất không bao giờ tan băng hoàn toàn, ngay cả trong mùa hè. Đời sống thực vật phát triển ít xa xỉ hơn, và nhiều loài chim và động vật có vú di cư về phía nam trong mùa đông khắc nghiệt; caribou nổi tiếng với việc di cư. Địa y, cỏ và cây hàng năm phát triển và sinh sản nhanh chóng trong mùa hè ngắn. Bắc Canada và miền bắc Nga chủ yếu là các hệ sinh thái lãnh nguyên.
Hoang mạc
Lượng mưa hàng năm trong một sa mạc nhỏ hơn 10 inch, hoặc 25 cm, mỗi năm. Thực vật, chẳng hạn như cây xô thơm và cây xương rồng, đã phát triển sự thích nghi để cho phép chúng bảo tồn và lưu trữ nước trong thời gian khô hạn. Động vật, chẳng hạn như rắn và động vật có vú nhỏ, đã thích nghi với việc đào hang dưới lòng đất để thoát khỏi ánh mặt trời vào ban ngày. Lượng mưa đóng vai trò lớn hơn nhiệt độ khi xác định sa mạc. Sa mạc Sahara ở phía bắc châu Phi là một sa mạc.
Đồng cỏ
Đồng cỏ và đồng bằng là hệ sinh thái đồng cỏ. Đồng cỏ nhận được lượng mưa nhiều hơn sa mạc, nhưng lượng mưa ít hơn so với nhà nguyện. Mưa nhẹ cho phép khoáng chất tồn tại trong đất bề mặt, thay vì được rửa sâu hơn vào đất; cỏ rễ phát triển tốt, trong khi những cây ăn sâu không thể tự thiết lập. Động vật có vú có xu hướng là động vật ăn cỏ di chuyển nhanh, chẳng hạn như linh dương và hươu cao cổ, hoặc động vật ăn thịt, chẳng hạn như sư tử. Trung Tây Hoa Kỳ và phần lớn miền trung châu Phi là hệ sinh thái đồng cỏ.
Nhà nguyện
Lượng mưa trong hệ sinh thái quần xã chaparral cao hơn một chút so với hệ sinh thái đồng cỏ và rơi gần như hoàn toàn trong mùa đông, dẫn đến mùa hè khô và thường nóng. Yucca, chà gỗ sồi, xương rồng và một số cây cứng được tìm thấy trong chaparral, bên cạnh chó sói, thỏ jack và thằn lằn. Nho, ô liu, quả sung, cây bạch đàn cũng phát triển mạnh trong chaparral. Địa Trung Hải phía nam châu Âu và bờ biển California là hai ví dụ về chaparral.
Mưa ôn đới
Lượng mưa là đặc điểm nổi bật của rừng mưa ôn đới, với một số rừng mưa ôn đới nhận được hơn 100 inch mưa mỗi năm. Khí hậu của rừng mưa ôn đới ôn hòa, với nhiệt độ hàng năm trung bình từ 50 đến 65 độ F. Cây lá kim chiếm ưu thế, mặc dù nhiều cây rụng lá cũng phát triển. Rêu, địa y và nấm là phổ biến. Hươu, gấu, sên và một loạt các loài chim chỉ là một vài trong số các loài sống trong rừng mưa ôn đới. Bán đảo Olympic ở bang Washington là một khu rừng nhiệt đới ôn đới.