NộI Dung
Nhìn từ xa, con quạ và con vẹt phổ biến trông giống nhau, nhưng khi kiểm tra kỹ hơn chúng khá dễ phân biệt. Như Mike OConnor, tác giả của Why Dont Woodpeckers bị đau đầu, viết "nó giống như nói một muỗng đường từ một muỗng súp". Quạ là loài chim lớn; loài chim biết hót lớn thứ hai ở Hoa Kỳ, chỉ bị quạ bởi người anh em họ quạ. Các con vượn phổ biến, có chung họ với chim đen, chim bò và chim vàng, có kích thước hơn một nửa con quạ Mỹ.
Ngoại hình
Những con quạ cao trung bình từ 11 đến 13 inch, với sải cánh từ 14 đến 18 inch - gấp đôi sải cánh. Và chỉ dưới một pound, những con quạ nặng gấp gần bốn lần so với những con vượn. Thoạt nhìn, cả hai đều có màu đen, nhưng dưới ánh sáng mặt trời, những con vẹt có một màu sáng bóng và óng ánh của đồng, tím và xanh lá cây, đặc biệt là trên đầu của chúng. Không giống như quạ, vượn có đôi mắt màu vàng sáng. Những con quạ đều màu đen, từ chân đến mỏ và mọi thứ ở giữa. Giống như quạ và các thành viên khác trong gia đình Corvidae, quạ được coi là một trong những loài chim thông minh nhất.
Môi trường sống và phạm vi
Con quạ Mỹ là phổ biến trên khắp lục địa Hoa Kỳ, đến tận miền nam Canada. Loài vượn phổ biến sống quanh năm ở hầu hết các bang phía đông dãy núi Rocky. Vào mùa hè, nhiều người sẽ di cư vào Canada để sinh sản. Cả hai loài chim đều có chung sở thích môi trường sống, bao gồm các cánh đồng nông nghiệp, khu vực ngoại ô và công viên thành phố. Khả năng của họ phát triển mạnh ở khu vực thành thị và nông thôn đã khiến cả hai bị nhắm mục tiêu là loài gây hại.
Ăn kiêng và động vật ăn thịt
Cả quạ và vượn phổ biến là động vật ăn tạp, ăn côn trùng và động vật có xương sống nhỏ bao gồm ếch và chuột. Trái cây, ngũ cốc, các loại hạt và rác thải góp phần vào chế độ ăn của cả hai loài chim. Những con quạ thường được nhìn thấy nhặt rác tại địa điểm của xác chết trên đường. Grackles ăn nhiều ngô; trong thực tế, chúng là mối đe dọa hàng đầu đối với cây trồng. Và bởi vì chúng ăn chủ yếu theo đàn lớn - không giống như quạ - tác động của chúng có thể dễ dàng chuyển thành hàng triệu đô la. Cả hai loài đều được săn lùng bởi gấu trúc, rắn, cú, diều hâu, mèo nhà và con người.
Vòng đời
Grackles và quạ tạo thành cặp sinh sản một vợ một chồng chia sẻ trách nhiệm xây dựng tổ và chăm sóc con non. Những con quạ đẻ trứng lớn hơn và nhiều hơn, trung bình từ ba đến chín, so với những con vẹt một đến bảy. Trứng quạ ấp trứng dài hơn một tuần so với trứng gà. Sau khi nở, gà con gáy ở trong tổ 20 đến 40 ngày, dài hơn gấp đôi so với gà con gáy lúc 10 đến 17 ngày. Trong tự nhiên, tiếng gầm gừ lên tới 22 năm, so với kỷ lục 14 năm cho một con quạ hoang.