NộI Dung
Các hệ thống bão xoay có nguồn gốc từ các đại dương nhiệt đới và cận nhiệt đới được gọi là lốc xoáy nhiệt đới. Khi một cơn bão nhiệt đới tăng cường độ, nó trở thành một cơn bão. Bên trong một cơn bão, áp suất khí quyển ở bề mặt đại dương giảm xuống mức cực thấp. Áp thấp trung tâm này kéo theo không khí đại dương ẩm ướt và giông bão xoay quanh tâm bão.
TL; DR (Quá dài; Không đọc)
Một cơn bão nhiệt đới đặc biệt dữ dội được gọi là một cơn bão. Bên trong một cơn bão, áp suất khí quyển ở bề mặt đại dương giảm xuống mức cực thấp. Khi không khí bị hút vào mắt bão, nó hút hơi ẩm từ đại dương và tăng lên nhanh chóng trước khi ngưng tụ, làm mát và giải phóng một lượng nhiệt lớn vào khí quyển trước khi rơi xuống và bắt đầu lại chu kỳ. Điều này khắc phục cơn bão, làm giảm áp suất khí quyển trên bề mặt đại dương. Áp suất khí quyển ở tâm bão càng thấp thì bão càng mạnh và ngược lại. Thang đo Saffir-Simpson dao động từ các cơn bão cấp 1 với áp suất khí quyển lớn hơn 980 millibar gây ra thiệt hại tối thiểu, đến các cơn bão cấp 5 có áp suất trung tâm dưới 920 millibar.
Sự hình thành của cơn bão
Khi một cơn bão nhiệt đới đạt đến cường độ bão, trung tâm áp suất thấp của nó được gọi là cơn bão mắt của cơn bão. Hoạt động giống như nhiên liệu cung cấp nhiều năng lượng hơn cho cơn bão, hơi ẩm từ nước ấm được chuyển thành nhiệt trong các dải mưa xoắn ốc quanh mắt. Khi không khí được kéo vào mắt, nó tăng lên nhanh chóng và sau đó ngưng tụ, làm mát và giải phóng một lượng nhiệt lớn vào khí quyển trước khi không khí hạ xuống và bắt đầu lại chu kỳ. Điều này giúp điều chỉnh cơn bão, làm giảm áp suất khí quyển trên bề mặt đại dương, kéo thêm không khí vào và hướng lên, củng cố cơn bão. Áp suất khí quyển ở tâm bão càng thấp thì bão càng mạnh và ngược lại.
Lực lượng hủy diệt
Vài thảm họa thiên nhiên khác gây ra sự hủy diệt tương đương với sức tàn phá của một cơn bão. Trong vòng đời của chúng, mỗi cơn bão này có thể tiêu tốn nhiều năng lượng như 10.000 quả bom hạt nhân. Với tốc độ gió bền vững của 249 km mỗi giờ (155 dặm mỗi giờ) trở lên, mưa dữ dội và nước dâng do bão, bão có khả năng cướp phá các vùng ven biển. Bão đạt cấp 3 trở lên được coi là những cơn bão lớn.
Phân loại bão
Thang đo cường độ bão Saffir-Simpson dựa trên các phép đo tốc độ gió, chiều cao của nước dâng do bão và áp suất khí quyển trung tâm tính bằng milimét. Thang đo Saffir-Simpson dao động từ các cơn bão cấp 1 với áp suất khí quyển lớn hơn 980 millibar gây ra thiệt hại tối thiểu, đến các cơn bão cấp 5 có áp suất trung tâm dưới 920 millibar. Bão cấp 5 có khả năng gây ra thiệt hại thảm khốc.
Bão lớn
Chỉ với 892 millibars áp suất khí quyển trung tâm, cơn bão Ngày Lao động đã tấn công Florida Keys năm 1935 và được xếp vào loại 5. Một cơn bão cấp 5 khác, với áp lực trung tâm là 909 millibars, cơn bão Camille đã đổ bộ vào Mississippi năm 1969. Bão Andrew, với áp lực trung tâm là 922 millibar, cũng là Loại 5 và tấn công vào phía đông nam Florida vào năm 1992. Bão số 5 đã gây ra trận đổ bộ ở Punta Gorda, Florida, năm 2004 với áp lực trung tâm là 941 millibar. Mặc dù được phân loại là cơn bão mạnh cấp 3, nhưng cơn bão Katrina ở mức 920 millibar đã gây ra sự tàn phá lan rộng dọc theo nhiều khu vực đông dân cư của vùng duyên hải miền trung và có áp lực trung tâm thấp thứ ba từng được ghi nhận.